Thứ Tư, 29 tháng 4, 2015

Khôi phục môn phái võ Chùa ở Bình Định

Cùng với chủ trương bảo tồn và phát triển võ cổ truyền Bình Định, CLB võ thuật cổ truyền chùa Long Phước đang củng cố và hoàn thiện cơ cấu tổ chức, lên kế hoạch đầu tư cơ sở vật chất để hoạt động quy củ hơn…

CLB võ thuật chùa Long Phước bắt đầu hoạt động từ đầu những năm 80 của thế kỷ trước và đã đào tạo nên nhiều võ sinh xuất sắc như: Nguyễn Văn Cảnh, Võ Văn Tính, Trần Duy Linh, Kim Huệ… Phần lớn trong số này được tập trung vào đội tuyển võ cổ truyền Bình Định, thi đấu rất thành công ở các giải vô địch quốc gia, đem về nhiều huy chương cho tỉnh nhà. Hiện nay, các võ sư: Trần Duy Linh, Nguyễn Văn Cảnh, Võ Văn Tính đang đảm nhận việc huấn luyện cho các VĐV năng khiếu và đội tuyển, tiếp tục duy trì những thành tích đã đạt được.
 

 
Sau khi lứa võ sinh xuất sắc kể trên ra lò, võ sư Đông Hải chuyển vào TP Hồ Chí Minh sinh sống, hoạt động võ thuật ở chùa Long Phước có phần trầm lắng. Dù vậy, cùng với nỗ lực từ phía chùa Long Phước cũng như các môn sinh cũ như HLV Kim Huệ, các lớp võ cổ truyền cũng được mở trở lại trong khuôn viên chùa, thu hút đông đảo thanh thiếu niên địa phương và những vùng lân cận tham gia. Hiện nay, đại đức Thích Vạn Nguyên đảm nhận chức danh Phó chủ nhiệm CLB võ thuật cổ truyền chùa Long Phước chịu trách nhiệm về chuyên môn, cùng với các đại đức Thích Vạn Thông, đại đức Thích Vạn Hội, HLV Kim Huệ… tham gia hướng dẫn tập luyện. Ngoài ra, võ sư Nguyễn Văn Cảnh cũng thường xuyên về chùa để cùng trao đổi về chuyên môn cũng như phát hiện các võ sinh có năng khiếu bổ sung cho đội tuyển tỉnh.

Thượng tọa Thích Hạnh Hòa, Trụ trì chùa Long Phước, cho biết: “Thực hiện chủ trương của tỉnh về việc bảo tồn và phát triển võ cổ truyền, chúng tôi đã củng cố tổ chức của CLB võ thuật cổ truyền chùa Long Phước. Bên cạnh việc duy trì lớp võ cho các đối tượng bên ngoài, chúng tôi cũng yêu cầu các thành viên trong chùa tham gia tập luyện các bài võ trong cuốn Lục tướng tằng vương phổ minh binh thư chiêu pháp của tổ sư Hư Minh. Tỉnh cũng đã có chủ trương cấp 0,75 ha đất để CLB xây dựng địa điểm tập luyện. Khi hoàn tất các thủ tục nhận đất, CLB sẽ  xây dựng Nhà thi đấu và các hạng mục liên quan để đảm bảo việc tập luyện võ được tách bạch với các hoạt động của chùa”.

Ông Nguyễn Minh Hùng, Tổng thư ký Liên đoàn võ thuật tỉnh, cho biết: “Ở Bình Định có rất nhiều chùa, nhưng chỉ duy nhất chùa Long Phước có các hoạt động về võ thuật. Đây cũng là nét riêng, thu hút được sự quan tâm của khách du lịch cũng như những người yêu thích võ thuật. 

Nói đến võ thuật trong chùa, người ta nghĩ ngay đến môn phái Thiếu lâm nổi tiếng của Trung Quốc, nhưng theo những nghiên cứu đã thực hiện thì các bài võ được lưu giữ và truyền dạy ở chùa Long Phước đều là sự kết hợp của các đòn thế cơ bản của võ cổ truyền Việt Nam. Do đó, có thể coi đây là một môn phái riêng mà theo cách gọi dân gian là “môn phái võ chùa”. 

Việc CLB võ thuật cổ truyền chùa Long Phước được hoàn thiện về mặt tổ chức, đi vào hoạt động một cách thường xuyên là phù hợp với những mục tiêu trong Đề án bảo tồn và phát triển võ cổ truyền Bình Định. Bên cạnh đó, đây cũng sẽ là một trong những địa điểm thu hút khách du lịch trong và ngoài nước, khi vừa được vãn cảnh chùa, vừa được thưởng thức những bài võ cổ truyền đặc sắc”.
 
Theo Báo Bình Định
Tag: võ cổ truyền Việt Nam, võ chùa, võ Bình Định

Võ sư mình đồng da sắt ở Hà Nội

Thân nằm trên bàn đinh rồi cho người khác đặt đá lên đập; vừa biểu diễn nhạc cụ vừa đóng đinh vào người; chạy trên mặt nước...tưởng chừng như đây là những màn ảo thuật chỉ có ở các ảo thuật gia. Tuy nhiên, đó lại là những kỳ tích mà những "dị nhân" khí công của Việt Nam đã làm được.


“Dị nhân” Chử Đức Vân đang vận khí cho người khác đánh.
Chúng tôi tìm đến ngôi nhà nhỏ nằm trong con ngõ 82 đường Phạm Ngọc Thạch (Đống Đa - Hà Nội), đây chính là mái ấm của dị nhân Chử Đức Vân, người mà được bà con nơi đây gắn cho cái tên "võ sư mình đồng da sắt". Hơn 25 năm luyện khí công, cơ thể của dị nhân này có thể chịu được những việc mà người bình thường phải sửng sốt, lắc đầu.

Kê người đập đá, đá vỡ người lành

võ sư Vân năm 1960, có 25 năm học khí công tại môn phái Thăng Long võ đạo. Mặc dù đã qua cái tuổi U50 nhưng thân hình dị nhân vẫn cường tráng như chàng trai tuổi đôi mươi.

Trên bức tường căn phòng nhỏ của dị nhân này treo rất nhiều huy chương và giấy khen của các cuộc thi võ thuật. Võ sư Vân cho biết, ông chỉ mang mấy danh hiệu về treo ở nhà, số khác để lại ở nhà thờ môn phái. Đến bây giờ, chính võ sư Vân cũng không biết mình đã giành được bao nhiêu huy chương vàng trong các giải thi khí công tại Hà Nội.

Chỉ vào tấm huy chương vàng treo trên tường, dị nhân Vân kể: "Tôi nhớ đây là tấm huy chương tôi đi thi đấu biểu diễn khí công trước năm 2000. Lúc đó, tôi được Võ đường giao nhiệm vụ biểu diễn chiêu thức "Khẩu lợi công" (có nghĩa là dùng hàm răng để nâng những vật nặng lên cao - PV). Lần lượt các võ sinh phải dùng răng nâng chiếc bàn có trọng lượng khoảng 60 kg lên và đi hai vòng quanh sân khấu. Lúc đến phần tôi biểu diễn, tôi phải nâng thêm chiếc lư hương của môn phái lên trên bàn để tỏ lòng tôn kính với các bậc tiền bối. Chiếc lư hương này có trọng lượng khoảng 20kg nữa. Lúc này, chiếc bàn đã nặng đến 80kg".

Cũng như thường lệ, trước lúc thể hiện, dị nhân Chử Đức Vân ra thế đứng tấn, vận khí vào người rồi đẩy lên hàm răng. Được biết, khi được vận khí vào, hàm răng của người luyện khí công cứng như thép, tạo thành gọng kìm có thể nâng bổng một vật rất nặng. Võ sư Vân dùng răng cắn chặt vào cạnh bàn rồi nâng cao đi hai vòng quanh võ đài trước sự trầm trồ khen ngợi của khán giả. Đến phút cuối, khi đã đặt chiếc bàn xuống, do cắn quá sâu khiến một mảnh bàn bị vỡ.

Hay một cuộc thi khác, dị nhân Chử Đức Vân đã khiến khán giả tại nhà thi đấu Trịnh Hoài Đức nổ tung khi chứng kiến màn biểu diễn kê tay đập ngói. Các võ sinh xếp khoảng 50 viên ngói thành một hàng. Đây là một màn biểu diễn khó đòi hỏi người biểu diễn phải có nội và ngoại công thâm hậu.

"Tôi tiến ra sân khấu, chào khán giả và bắt đầu vận khí. Khi tôi hít thở vào, cảm tưởng có một luồn khí chạy dọc cơ thể. Khi vận khí, tâm con người phải hoàn toàn tĩnh, không được nghĩ đến bất cứ thứ gì cả. Tôi đẩy khí vào tay phải, vì đây là tay mà tôi sẽ dùng kê đập ngói. Tôi đặt tay lên chồng ngói, hai môn sinh khiêng một tảng đá hơn 100kg nâng bổng viên đá lên và dập mạnh một cú xuống tay tôi khiến chồng ngói 50 viên bị vỡ vụn. Tất cả khán giả đứng lên vỗ tay tán thưởng", võ sư Chử Đức Vân hào hứng kể lại.

Ngay sau đó, dị nhân này đã khiến cho khán giả trong nhà thi đấu phải bịt mắt khi chứng kiến phần biểu diễn của mình. Dị nhân gác đầu lên bàn đinh rồi cho người khác đặt gạch lên đầu. Một thanh niên khoẻ mạnh vác chiếc búa tạ quai mạnh và giáng xuống, 5 viên gạch gãy đôi nhưng đầu ông vẫn lành lặn. Tiếng la hét kinh sợ vang cả nhà thi đấu, võ sư Vân đứng dậy, vận khí để trở lại trạng thái bình thường. Lúc này vẫn có nhiều khán giả che mắt, không dám nhìn. Có lẽ, kỷ lục lớn nhất trong thời kỳ đỉnh cao của dị nhân này đó là nằm trên bàn đinh, đặt khối đá 100kg trên người, dùng búa tạ đập mà cơ thể không hề xây xát. Đến bây giờ, ra ngoài đường, nhiều người vẫn nhớ đến tôi sau màn biểu diễn này.     

Thử tài và những hồi ức của "dị nhân"

Để minh chứng cho khí công "mình đồng da sắt", võ sư Vân lấy ra một thanh sắt có chiều dài khoảng 1,2 mét, bản rộng khoảng 6 cm, dày khoảng 1 cm. Dị nhân đưa cho tôi và yêu cầu tôi dùng thanh sắt nặng khoảng 6kg này đánh vào người ông. Sau một vài tư thế để vận khí, cơ thể của dị nhân phồng ra như chiếc lốp ô tô được bơm hơi, thớ thịt co thắt lại tạo nên khối cơ trồi lên rắn như sắt đá. Võ sư Vân đứng ra giữa nhà, tôi nhắm mắt dùng hết sức bình sinh, quật mạnh thanh sắt vào lưng và bụng ông. Tuy nhiên, phải đến cú quật thứ 6, thanh sắt nặng hơn 6kg này mới chịu cong vẹo.

Mặc dù là người được đánh nhưng sau 6 lần "xuất chiêu" mặt tôi tái xanh vì mệt nhưng sắc mặt dị nhân không hề thay đổi. Hồi khí lại, võ sư Chử Đức Vân cười hào sảng: "Thanh niên gì mà yếu như sên vậy. Người học võ như chúng tôi, khi biểu diễn, chỉ cần một cú là thanh sắt có thể cong hơn thậm chí nếu lực quật mạnh, thanh sắt sẽ gãy đôi. Đây gọi là môn "Thiết bố sam", dùng cơ thể để chống lại những tác động bên ngoài. Nếu luyện thành công môn này, chúng ta có thể chịu được lực tác động từ vài kg đến hàng tạ mà không việc gì cả".

Khi hỏi về cơ duyên đến với võ thuật, võ sư Vân cho biết, lúc nhỏ vì có thể trạng nhỏ nhất lớp nên ông thường xuyên bị bạn bè bắt nạt. Năm 16 tuổi, nghe danh tiếng cụ Nguyễn Văn Nhân, người thụ giáo môn võ lừng danh Thiếu lâm gia truyền tại Hà Nội, ông tìm đến mong được bái sư với ước muốn xin theo học võ để tăng cường sức khoẻ. Lúc này, để được cụ Nhân tuyển chọn dạy võ không phải là một điều đơn giản, lúc ông đến đã có hơn 100 đệ tử chầu chực trước cổng để xin theo cụ cho học.

"Tuy nhiên, nhìn những người khác to lớn, rất có khí thế võ thuật khiến tôi nhụt chí, nghĩ cụ sẽ không bao giờ nhận nên không dám đăng kí, chỉ lẳng lặng nhìn lén cụ và những học trò tập luyện rồi về tập theo những động tác. Sau tháng ngày học "lỏm", thầy Nhân gọi tôi vào lớp và truyền dạy võ Thiếu lâm. Tuy nhiên, vì cuộc sống nên tôi không theo được môn võ này", dị nhân Vân kể lại.

Năm 1986, trong một lần tình cờ gặp võ sư Nguyễn Văn Thắng, Trưởng môn nhân phái Thăng Long võ đạo, võ sư Vân xin nhập môn phái học võ và luyện khí công. Sau hơn 10 năm học tại đây, võ sư Vân đã có thể làm được những điều phi thường khiến người khác phải gọi ông là "dị nhân".

Dị nhân mình đồng da sắt kể: "Ngày đầu tôi luyện môn Thiết xa chưởng, sư phụ bắt tôi phải tự vót 12 cây đũa. Lúc đầu mới tập, tôi dùng tay đóng những chiếc đũa này xuống đất cứng. Mặc dù tay bị thương nhưng đó là rèn luyện sự chịu đựng và sự dũng cảm. Sau này khi luyện thành công Thiết xa chưởng, chỉ cần một động tác, tôi có thể đóng liền 12 chiếc đũa ngập xuống đất mà tay vẫn lành lặn như thường. Hay tôi đứng tấn để cho người khác đập gãy thanh sắt khoảng 7mm vào người mà không hề hấn gì cả".

Theo võ sư Chử Đức Vân, học khí công không nhất thiết phải học trong nhiều năm mới có thể đạt đến đẳng cấp thượng thừa. Có khi, có những người học mấy chục năm nhưng chưa đạt đến trình độ của người học một vài năm. Bởi vì, luyện khí công là phải thắng được sức ỳ của chính mình. Có thể cùng một thầy, một bài, cùng một thời gian tập luyện nhưng có người có khí công rất tốt có người lại không luyện thành công được. Đây là điều đặc biệt của khí công nói riêng và võ thuật nói chung.

Nguồn xaluan
Tag: cao thủ võ thuật Việt Nam, võ sư Hà Nội

Thứ Ba, 28 tháng 4, 2015

Cách ngồi thiền căn bản

Cách ngồi thiền

Ngồi thiền được coi là một cách thức thực tập thiền cơ bản, phổ biến và hiệu quả nhất. Những người mới tiếp xúc với thiền thì nên thực hành phương pháp này đầu tiên. Hiểu một cách đơn giản, ngồi thiền là việc ta ngồi và giữ cho tâm trí thật vắng lặng, kiểm soát, không để vọng tưởng phát sinh và không chạy theo vọng tưởng. Khi bạn kiểm soát được vọng tưởng của mình, tự nhiên tâm sẽ an ổn, tĩnh lặng.
Để bắt đầu, bạn cần có sự chuẩn bị về không gian, thời gian và một số thứ khác để giúp buổi thiền đạt hiệu quả hơn.
Tham khảo bài viết: 5 bước chuẩn bị cho một buổi ngồi thiền hiệu quả để biết chi tiết hơn nhé!
Cách ngồi thiền - Tư thế bán già và kiết già
Tư thế bán già và kiết già.
Tiếp đến, bạn lựa chọn tư thế ngồi. Tư thế cơ bản là xếp bằng (khoanh chân) và giữ cho lưng thẳng. Tuy nhiên, tư thế ngồi hiệu quả hơn cả là bán già hoặc kiết già. Các bạn cũng nên lựa chọn một trong hai thế ngồi này, tùy vào khả năng của mình, để làm tư thế chính khi ngồi thiền. Vấn đề này đã được chia sẻ chi tiết hơn qua bài viết: 3 tư thế ngồi thiền cơ bản không thể bỏ qua.
Sau đó, bạn nhắm mắt lại và cố gắng kiểm soát tâm trí. Tâm trí ta kiểm soát có gì khó đâu. Xin thưa với các bạn, nghe thì vậy thôi chứ việc kiểm soát tâm trí không phải khó mà là vô cùng khó. Cách ngồi thiền thì rất đơn giản, nhưng ngồi làm sao để đạt hiệu quả, giúp ta tìm được sự bình an trong tâm hồn thì không hề dễ tí nào.
Do đó, các bạn mới thực tập thiền nên thực hiện theo 3 giai đoạn được chia sẻ trong bài viết: 3 giai đoạn cơ bản trong một buổi ngồi thiền. Sau một thời gian thực tập nghiêm túc, thường xuyên và quyết liệt, sẽ đến lúc, bạn có thể cảm nhận được điều tuyệt vời mà thiền mang lại.
Như vậy là Chap đã giới thiệu cho các bạn một số kiến thức cơ bản và chung nhất về thiền, cách ngồi thiền cho những ai muốn tìm hiểu thêm về bộ môn này. Thiền và cách thức thiền đơn giản vậy thôi nhưng sự thực tập lại là cả một quá trình để bạn có thể cảm nhận sự thay đổi từ từ trong tâm mình.
Sức mạnh của thiền, tuy nhiên, lại là điều mà ít ai lại có thể phủ nhận. Hãy thực tập và tự khám phá điều đó bằng khả năng của chính bạn nhé! Chúc bạn thành công!

Bí ẩn Kiếm Việt ra đời khi nào?

Riêng tại Việt Nam, đỉnh cao là thời đồ đồng Đông Sơn , ông cha chúng ta đã sản xuất những loại đoản kiếm (dao găm) có hình dạng rất đẹp. Một số đoản kiếm (dao găm) được phát hiện như: đoản kiếm làng Cả (Vĩnh phú), đoản kiếm làng Vạc (Nghệ an), đoản kiếm chuôi tượng (Thanh Hóa)…

Sau thời đất nước ta bị giặc Tàu đô hộ thì kỹ thuật đúc trống đống Đông Sơn bị thất truyền, và kỹ thuật đúc kiếm cũng bị mai một theo. Đến nay chúng ta không thể biết làm sao cha ông ta đúc được những trống đồng với kỹ thuật cực kỹ tinh xảo và khi gióng lên thì tiếng trống làm kinh hồn giặc Bắc, và những loại binh khí cổ truyền của người Việt cổ như kiếm, búa, lao, tên, nỏ chỉ còn lưu lại trong huyền sử thời Hùng Vương cũng như nỏ thần An Dương Vương…
Vào các thời đại Đinh, Lê, Lý, Trần (968-1400), kiếm đã được sử dụng rộng rãi trong quân đội, nhưng rất tiếc chúng ta không có nhiều tài liệu còn lưu lại để biết được hình dạng kiếm và cách luyện kiếm vào các thời này
Đến thời Hậu Lê chúng ta có truyền thuyết rùa thần dâng kiếm cho Lê Lợi và khi cuộc kháng chiến chống Minh thành công, Lê Lợi đã hoàn trả kiếm cho rùa thần và ngày nay chúng ta có hồ Hoàn kiếm ở Hà Nội. Người viết biết được gần đây ở Việt Nam có khai quật được một số lớn kiếm của nghĩa quân Lam Sơn nhưng khi viết bài này không có tài liệu trong tay nên không dám lạm bàn về kiếm thời Hậu Lê.
Đến thời Chúa Nguyễn và hai nhà Nguyễn sau này (Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh), đất nước ta là ngã ba thông thương giữa các nước qua ngã cửa biển Hội An, cũng như có cuộc chiến tranh với Xiêmla, Tàu và Pháp, nên tại Việt Nam đã xuất hiện nhiều loại kiếm với hình dạng khác nhau: loại lưỡi cong, cán dài và cong như kiếm Puma, Thái lan, loại lưỡi cong có phần che tay tròn như kiếm Nhật loại lưỡi thẳng, bản mỏng có hai lưỡi bén như kiếm Tàu, loại lưỡi cong, chuôi kiếm hình chữ D như kiếm Pháp.
Nói tóm lại, sau thời kỳ bị giặc Tàu đô hộ đến nay, kiếm Việt Nam không có hình dáng nhất định với những nét đặc thù mang đậm bản sắc của dân Việt. Mà hình dáng của kiếm Việt thay đổ tùy thời, tùy theo ảnh hưởng của ngoại bang, lân bang. Kỹ thuật đúc kiếm, luyện kiếm của dân Việt bị mai một không mấy ai biết đến. Tuy kiếm được sử dụng rộng rãi trong quân đội Việt từ xưa cho đến cuối thế kỷ 19 khi nhà Nguyễn chấm dứt, nhưng kiếm Việt không tạo nổi thành một trường phái Kiếm đạo như Kendo, Iaido của Kiếm Nhật hay Fencing của kiếm roi Tây phương đã được đưa vào Olympic
Ngày nay môn kiếm vẫn được dạy trong các võ phái khác nhau của võ Việt Nam nhưng mang nặng tính chất “giữ gìn văn hóa” hơn là thực dụng. Các bài kiếm được dạy theo lối truyền khẩu nhiều nên không thể tránh khỏi tình trạng “tam sao thất bổn”. Người học kiếm muốn đạt đến cái “đạo” của kiếm cảm thấy một chân trời qúa xa để hướng đến. Nói một vấn đề đơn giản, chỉ muốn chế tạo một thanh kiếm đúng kiểu Việt nam cũng gặp một …trời câu hỏi không biết đường giải đáp.
Nguồn: Thiếu Lâm Nam Phái
Tag: binh khí võ cổ truyền Việt Nam, võ khí, 

Những kỳ nhân võ cổ truyền Quảng Ngãi

Lão hổ Bảo Truy Phong
Những người uyên thâm về võ thuật như ông, những năm cuối đời thường chọn cuộc sống vui thú điền viên với con cháu và đồng quê; tạm xa cuộc sống xô bồ và ồn ào chốn thị thành. Căn nhà ông nằm trong một con hẻm nhỏ gần ngã tư Ba La, xã Nghĩa Giõng, huyện Tư Nghĩa.

Tên ông là Nguyễn Tý, năm nay 98 tuổi, biệt danh trong làng võ là Bảo Truy Phong, dân địa phương thường gọi là Chín Sửu.

Cái tên Bảo Truy Phong không phải sinh ra để hăm dọa đối thủ ở danh trấn giang hồ, mà đó là tên ghép của hai sư phụ của ông – hai đại sư lừng lẫy đất Sài Gòn Gia Định – Dương Truy Phong (võ thiếu lâm) và Thái Văn Bảo (quyền anh).

Một thời lừng lẫy, nhưng rồi con người đâu thể thoát khỏi cái vòng tuần hoàn của sự sinh - biến – suy – vong. Vị đại sư ngang dọc từ Nam chí Bắc của những năm 30, giờ đang nằm bất động sau cơn bạo bệnh. Chiếc bình nước nhỏ từng giọt chậm chạp, như đếm khoảnh khắc còn lại trên dương thế của ông.

Quảng Ngãi, vào thập kỷ của những năm 20 với bao thăng trầm dâu bể. Nghe thiên đường Sài Gòn Gia Định ở xứ Nam Kỳ dễ kiếm cơm, năm 1925, ông cùng người hàng xóm là Đoàn Phò rong ruổi vào Nam làm nghề xe kéo. Công việc nặng nhọc, suốt ngày quần quật trên đường như trâu ngựa.

Thấy lính Pháp hì hục tập võ trong đồn, ông thường đứng ngoài xem. Sài Gòn có 2 lò võ nổi tiếng của võ sư Dương Truy Phong và Thái Văn Bảo, ông đến bái sư và xin nhập môn. Vị đại sư này có vẻ chú ý đến cậu học trò quê ở Quảng Ngãi - ngày kéo xe, tối về học, khuya lại tiếp tục kéo xe.

Có một lần, 4 thằng bụi đời cầm dao phay rượt chém ông. Lựa thế bay vào nhà, ông quay ngoắt lại dập cửa, kẹp chân tên chạy trước, khiến con dao đâm lút vào tấm cửa gỗ.

3 tên thất kinh bỏ chạy, ông quay ra xử sự đúng theo kiểu Quan Công tha Tào Tháo trận Xích Bích - điềm nhiên rút dao trả lại. Vài hôm sau, tên này quay đến bái tạ. Sư phụ phục cái đức không thù oán của ông nên đã truyền dạy tất cả tinh hoa võ thuật.

Gia đình lão hổ Bảo Truy Phong thời trung niên
Sau khi học võ thành danh, ông trải nghiệm thực tế tại trường đời bằng những trận giao đấu từ Bắc chí Nam, qua Campuchia. Trong những lần thượng đài, tên tuổi Bảo Truy Phong Quảng Ngãi “bách chiến bách thắng” nổi lên như cồn.

Đấu võ tự do lúc đó thực sự chẳng khác nào đấu trường La Mã cổ xưa - đó là nhiều khi đánh nhau trọng thương. Nhiều võ sĩ học cả đời, nhưng chỉ cần dính một đòn hiểm là thân bại danh liệt. Trong cuộc đời thượng đài, những trận gay cấn như gặp một võ sĩ bò mộng ở võ đường Thanh Hóa, lò võ này từng hạ sát võ sinh của võ đường Sài Gòn Gia Định.

Khi lên đài, ông thủ liên tiếp mấy hiệp để dò đòn đối phương, đồng thời làm cho đối phương mất kiên nhẫn và sơ hở. Cuối cùng, bằng đòn xoay người tung liên tiếp 6 chỏ liên hoàn như sấm sét, người xem hoa mắt chưa kịp định thần, chỉ thấy võ sĩ kia gục xuống sàn đài.

Nổi tiếng nhất là lần gặp võ sĩ vô địch quyền anh nước Pháp – La Fone. “Biết địch biết ta, trăm trận không nguy” – ông đã áp dụng chiêu này, hàng ngày nằm nghếch trên chiếc xe kéo, vờ đặt tờ báo lên mặt để quan sát võ sĩ này tập luyện.

Lúc thượng đài, ông di chuyển như mèo, khiến võ sĩ La Fone hụt hơi. Chỉ chờ một giây sơ hở, cú móc hàm trời giáng của ông, cộng với hai đòn bồi tiếp theo như bom tấn khiến võ sĩ này phải đầu hàng.

Năm 1938, tức sau 13 năm lưu lạc đất Sài Gòn và Cao Miên, ông quay về Quảng Ngãi và lên Ba Tơ dạy võ cho du kích, chuẩn bị lực lượng chờ cơ hội Tổng khởi nghĩa.

Giờ đây, mặc dù đã nằm một chỗ, nhưng ông luôn nhắc đến cái tên của tướng Nguyễn Chánh: “Ông Chánh kêu về Quảng Ngãi. Hồi ở Sài Gòn tôi cũng là cơ sở của đàng mình rồi”.

Nói chung, các thầy dạy võ ở Quảng Ngãi thời đó đều là người của Cách mạng. Tại Quảng Ngãi, gánh võ của ông xuôi ngược từ biển lên núi. Tất cả số tiền kiếm được đều bỏ vào hũ tiết kiệm phục vụ kháng chiến.

Lão võ sư Bảo Truy Phong chụp ảnh chung với các võ sĩ lò võ Tấn Hoành năm 1960

Truyền nhân lâm hổ

Tôi giật mình khi một danh sư trong làng võ khẳng định về lâm hổ Ngô Bông: Lão võ sư này còn nhiều bài quyền mà làng võ Việt Nam sắp thất truyền, ngoài bài hùng kê quyền.

Điều khác biệt nhất giữa lão võ sư Ngô Bông, 79 tuổi (ở xã Nghĩa Điền, huyện Tư Nghĩa) so với các võ sư khác ở Quảng Ngãi, đó là ông chuyên tâm nghiên cứu về võ cổ truyền. Ông trở thành một kho tàng lưu giữ các tinh hoa võ thuật của dân tộc từ ngàn xưa để lại.

Võ sư Tấn Tương Lai - Chủ tịch Liên đoàn võ thuật tỉnh Quảng Ngãi, người từng làm tổ trưởng trọng tài Quốc gia nên đã cọ xát với nhiều môn phái, khẳng định: Rất là độc đáo, bài võ cổ truyền nổi tiếng nào hô lên là võ sư Ngô Bông thuộc làu.

Bài hùng kê quyền thì khỏi phải bàn. Bài này của Nguyễn Lữ, nhưng cuối cùng bị thất truyền. Nhưng võ sư Ngô Bông lại là người nắm giữ. Bài này đã được Liên đoàn võ thuật Việt Nam xếp vào 9 bài quyền căn bản của võ học Việt Nam.

Bắt đầu theo nghiệp võ từ năm 11 tuổi. Suốt mấy chục năm tầm sư học đạo, khổ luyện những chiêu thức tinh hoa của võ nghệ, võ sư Ngô Bông đã thông thạo được nhiều tuyệt kỹ: đao, thương, kiếm, côn, quyền…

Thời đó, võ sư Bảo Truy Phong và Lâm Võ – hai người thầy lừng danh ở Quảng Ngãi đã đặt cho người học trò của mình biệt danh Lâm Hổ. Bởi, võ sư Ngô Bông đã nhiều năm khổ luyện thành công các bài Hắc Hổ, Mãnh Hổ xuất sơn, Hắc hổ hạ sơn, Ngọa hổ phục lâm.

Để có bộ trảo như móng vuốt của hổ, ông đã khổ công luyện thiết sa chưởng với cát, sỏi. Từ đó, mỗi lần tung đòn, uy lực của ngũ trảo ào ạt như vũ bão.

Cả đời gắn với nghiệp võ, và cuộc sống của võ sư Ngô Bông vẫn đạm bạc. Thế nhưng, nhiều người cho biết, những năm trước đây ông rất nghèo vì phải chật vật nuôi con ăn học. Vậy mà nghiệp võ ông không bao giờ bỏ.

Trên góc bàn thờ tổ tiên, ông dựng một loạt binh khí như: Roi trường Bình Định, đinh ba, kích Lã Bố, thương Triệu Tử Long, đại đao Quan Công, kiếm… Một danh sư trong làng võ cho biết: Bài đinh ba thì từ Bắc chí Nam chỉ có võ sư Ngô Bông còn giữ được chính danh.

Ông xuất thân từ hoàn cảnh không có một tấc đất cắm dùi - cha bị bắt đưa đi Côn Lôn khi ông vừa sinh ra được 3 ngày. Người mẹ vào Nam tìm chồng cũng bặt tin và chết sau đó ít lâu.

Ban ngày chăn trâu, ban đêm ông và bạn bè bí mật vào khu Gò Cháy để học võ của cậu Sáu - một người uyên thâm võ học của Tây Sơn. Lớn lên trong cảnh côi cút và cùng cực, lão võ sư Ngô Bông thấu hiểu cuộc đời như võ học: “Võ thì cả đời cũng không thể biết hết được; học võ cốt để giúp đời”.

Ngoài võ thuật đắc đạo được của nhiều sư phụ, kinh nghiệm ông thu nạp được nhờ nhiều trận tử chiến với những võ sĩ lừng danh thiên hạ. Ông từng qua Thái Lan nghênh chiến 4 lần thì bị thua một, hòa một, thắng hai.

“Gay go và ác liệt nhất là gặp võ sĩ Phi nát, nó toàn chơi đòn phá ngựa, chỏ lật rất gian ác. Trận đầu bị nó đánh rớt ngay sau vài hiệp. Về luyện tập và tiếp tục qua giao đấu. Ròng rã 6 hiệp, hai bên bắt tay xin hòa” - Ông kể lại những trận tử chiến của mình.

Còn đây là lời thiệu trong bài “thanh long đại pháp nhị kim cương” của Triệu Tử Long, một vị tướng thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc mà sau này nghĩa quân Tây Sơn cũng sử dụng…

Ông đi như múa với cây đại đao đầy mãnh lực. Dù đã già, nhưng trí nhớ của ông dường như thuộc làu những điều đã học trong võ thuật. Ông còn thuộc làu hàng loạt bài: Nghiêm thương của Nguyễn Huệ, Thanh Long đại chiến, Hùng gia quyền, Mai hoa quyền, Lão hổ…

Gia đình lão võ sư Ngô Bông có 8 người con, Ngô Lâm Em và Ngô Sỹ là 2 con trai nối nghiệp võ của cha. Ngoài ra, ông còn có hàng ngàn môn sinh được truyền thụ võ thuật.

“Nghề võ không giàu, nhưng cả đời tôi mong truyền thụ cho con cháu, sau này không mất đi những tinh hoa mà các thế hệ cha ông đã khổ luyện để giữ gìn non sông, bờ cõi” – Hỏi về dự định trong tương lai, lão võ sư Ngô Bông chia sẻ tâm nguyện của mình còn sống, còn theo nghiệp truyền dạy võ thuật tinh hoa của dân tộc.

Theo 24h
Tag: kỳ nhân võ cổ truyền, huấn luyện viên võ, cao thủ võ thuật Việt Nam

Tìm hiểu về Côn

Côn  là một loại gậy được sử dụng làm binh khí phổ thông trong các hệ phái võ thuật cổ truyền nhiều nơi trên thế giới, nó cũng là một trong những binh khí nổi tiếng trong thập bát ban võ nghệ.
Côn trong tiếng Việt thường chỉ một dạng Gậy cứng. Tuy nhiên, ngôn ngữ của các võ phái Bình Định Việt Nam lại dùng Roi để chỉ côn, mặc dù thuật ngữ roi trong nhiều võ phái khác, đặc biệt là các võ phái Trung Hoa, thường chỉ các vũ khí dài và mềm như dây xích hay các đoạn côn ngắn nối với nhau bằng xích, âm Hán Việt gọi là Tiên như cửu tiết tiên (roi 9 đốt làm bằng sắt), thất tiết tiên (roi 7 đốt làm bằng sắt). Võ thuật Trung Quốc và Nhật Bản còn dùng chữ Bổng để chỉ côn, gọi khái quát là côn bổng tuy nhấn mạnh hơn đến những loại trường côn và cũng không hiếm khi bổng được chỉ một vũ khí khác hẳn.

Đặc điểm
Côn có hình dạng rất phong phú tùy theo mục đích và thói quen sử dụng của người tập, nhưng thường thấy côn có hai đầu tròn đường kính bằng nhau, có một độ dài đa dạng và thường hiếm khi có quy ước cụ thể đầu côn hay đuôi côn. Tuy nhiên, một số loại côn có đầu và đuôi côn bằng nhau nhưng thân giữa hơi phình to một chút, một số loại côn khác lại có đầu to hơn đuôi, như côn nhị khúc hay song hổ vĩ côn.
Chất liệu làm côn rất đa dạng. Côn thường làm bằng gỗ, tre, tầm vông, cây song (mây) cứng hoặc song mềm. Tuy ít phổ biến hơn nhưng vẫn thấy có côn làm bằng kim loại (sắt, đồng, nhôm). Các võ phái xuất xứ từ Nhật Bản thường sử dụng gỗ sồi để làm côn, trong khi Việt Nam thịnh hành các loại côn làm bằng tre, song mây, tầm vông, mật cật, căm xe.
Một số loại côn
Dựa trên cấu tạo của côn và tùy thuộc võ phái, có thể phân chia côn thành hàng trăm tiểu loại. Tuy nhiên, trong ứng dụng thực chiến côn thường nằm trong hai loại: côn một khúc và côn gồm nhiều khúc nối vào nhau.
Côn một khúc
– Trường côn: cây gậy rất dài, có thể cao bằng đầu, cao hơn đầu một nửa cánh tay, hoặc thậm chí dài tới 2,5 mét được các chi phái Vịnh Xuân quyền sử dụng trong bài Lục điểm bán côn.
– Tề mi côn: côn ngắn tới ngang chân mày người tập, thịnh hành trong các võ phái cổ truyền Việt Nam. Các hệ phái võ thuật ở Bình Định còn gọi Tề mi côn là Roi chiến.
– Trung côn: cao tới ngang nách người tập.
– Đoản côn: gậy ngắn, thường dài bằng một cánh tay người tập. Có thể sử dụng cả hai đoản côn gọi là song côn. Một biến thể của nó được ứng dụng thời hiện đại rất phổ biến dưới tên gọi dùi cui.
– Tiểu đoản côn: loại côn được các hệ phái Karatedo ưa chuộng, chỉ dài cỡ 10-15cm có thể để gọn trong lòng bàn tay, thường dùng ngón út để đẩy đầu côn lên và ngón cái để đẩy đầu côn xuống khi đâm, chọc hỗ trợ đòn đánh gia tăng lực sát thương hàng chục lần.
– Quải (tonfa): một dạng dùi cui hay đoản côn có cán chĩa ngang hình chữ L, xuất xứ từ Okinawa, rất thịnh hành trong Karate.
– Kiếm gỗ (Nhật Bản) làm bằng gỗ sồi cũng có thể coi là một dạng côn vì sức công phá mạnh mẽ của nó.
Côn nhiều khúc
– Tử mẫu côn: một trung côn nối với một đoản côn bằng sợi dây chắc, thịnh hành trong các võ phái Việt Nam với tên gọi Thiết lĩnh. Trong võ thuật Trung Hoa, nguyên khởi từ Tống thái tổ Triệu Khuông Dẫn có tên gọi “đại bàn long côn”, thời cận đại ở phương Bắc lại gọi là “đại tảo tử” và “tiểu bàn long côn” (tiểu tảo tử).

- Côn nhị khúc (nunchaku): còn gọi là lưỡng tiết côn, song tiết côn, xuất xứ từ Okinawa.

- Côn tam khúc: còn gọi là tam tiết côn. Loại côn này thường dùng ba đoản côn dài bằng nhau được nối với nhau bằng dây mềm.
– Song hổ vĩ côn: dạng côn gồm 3 đoạn nối vào nhau tương tự như côn tam khúc, nhưng ba đoạn có chiều dài không đều nhau nối theo thứ tự từ dài đến ngắn. Song hổ vĩ côn thường sử dụng cả đôi (bài hát). Nếu sử dụng đơn được gọi tên là hổ vĩ côn, thịnh hành trong Côn Luân phái và môn phái Bắc Mã Sơn Việt Nam.
Kỹ thuật sử dụng
Kỹ thuật đánh côn rất đa dạng: có thể là loan hay khuyên (quay tròn), chặn, đả (đánh), thương (đâm), bật, xiết (thường ứng dụng với côn nhiều khúc) v.v. Nguyên lý sử dụng côn thường dựa trên cơ sở lực ly tâm khi đánh và phản lực khi giật.
Ứng dụng trong các võ phái
Trong võ thuật Trung Hoa, côn được sử dụng rất phổ thông. Thiếu Lâm tự nổi danh về côn pháp với nguyên tắc “kẻ xuất gia từ bi bác ái, thà dụng côn bất dụng thương”. Bởi tuy côn có khả năng gây thương tích cho đối thủ nhưng ít khi gây chết người như đao hay thương, do đó phù hợp hơn với tăng ni phật tử ,ngoài ra Cái Bang còn có 1 bộ côn pháp trấn phái là Đả Cẩu Côn Pháp gồm 36 chiêu biến hóa khôn lường , kỳ ảo. Nhiều loại côn từ các võ phái Trung Quốc lan truyền đến các nước vùng Á Đông khác như côn tam khúc, trường côn, đoản côn, song hổ vĩ côn. Wushu hiện đại cũng có mục thi đấu và biểu diễn côn pháp trong các bài sáo lộ mang tên trường côn.
Vùng đất thượng võ Okinawa Nhật Bản được coi như nguyên ủy của côn nhị khúc, tiểu đoản côn, quải.
Việt Nam cũng là cái nôi của những tuyệt kỹ sử dụng côn (roi) trong các võ phái Bình Định và các võ phái miệt vườn Nam bộ như Tân Khánh Bà Trà. Những câu ca dao: “Con gái Bình Định múa roi đi quyền”, rồi “Roi Thuận Truyền, Quyền An Thái”, “roi kinh, quyền Bình Định” (Kinh thành, Bình Định) cho thấy một truyền thống không thể phai nhòa với thời gian. Tuy nhiên, hiện nay trong các hệ phái Bình Định nhiều kỹ pháp côn đã thất truyền, mặc dù một số bậc thầy của Bình Định gia sử dụng côn vẫn vang danh, như cố võ sư Hồ Ngạnh với đường roi tuyệt kỹ “hẹn ngày chết”. Võ phái Tân Khánh Bà Trà cũng có những bậc tiền bối từng nổi danh với những đường roi, đường côn kỳ tuyệt đả bại nhiều cao thủ khắp lục tỉnh Nam Kỳ, như Đệ nhất côn Đỗ Văn Mạnh (Năm Nhị), đây cũng là võ phái sáng tạo nhiều bài côn danh tiếng như Tấn nhứt, Tứ môn, Giáng hoả, Thái sơn v.v.
Đặc điểm của nhiều đòn thế côn Việt Nam là công phá hai đầu và luôn đánh theo chiều nghịch, luôn lấy nghịch để chế thuận, làm cho đối phương mất phương hướng rơi vào lúng túng, bất ngờ. Song song đó, côn pháp được áp dụng triệt để phép âm dương ngũ hành cùng năng lực biến hóa của đồ hình bát quái trong khai triển đấu pháp, cũng như khi di chuyển, chế ngự của hai chân (bộ pháp). Khi bị đối phương tấn công thì không đỡ để thủ thân mà lập tức vung roi áp sát và lượn theo chiều côn của địch thủ để công đòn, đồng thời khống chế tầm roi để thực hiện thế “đâm so đũa”, một thế võ bí truyền chưa có cách hóa giải. Đây chính là ngọn roi cộng lực “tuyệt kỹ”, “xuất quỷ nhập thần” có một không hai của môn binh khí lừng danh đất Việt.
Nguồn congphu
Tag: binh khí võ cổ truyền, đao, kiếm, cung,...

Võ cổ truyền Việt Nam xưa và nay

Võ cổ truyền Việt Nam với lịch sử hàng ngàn năm lập nước,dựng nước và dữ nước,trên cơ sở gốc bản địa,nẩy sinh từ cuộc đấu tranh sinh tồn.
Từ sau công nguyên,trong cuộc giao lưu văn hoá với Ấn Độ và Trung Quốcđã tiếp nhận thêm nhưng môn võ mới và những kỹ thuật võ mới thích hợp.Các võ sư tham bác lẫn nhau.Về sau trong cơ chế chính quyền,nhà vnước lập võ banbên cạnh văn ban,rồi mở Trường võ bị và tổ chức thi võ ở địa phương,ở Trung ương với chương trình quy định thống nhất ,đã xoá dần những quan niệm hẹp hòi,tất cả hợp thành võ dân tộc.

võ cổ truyền Việt Nam xưa và nay


Nhưng từ cuối thế kỷ XIX,với sự tấn công của chủ nghĩa tư bản phương Tây bằng sức mạnh từ xa,thì khoa học quân sự Việt Nam với trận pháp,chiến lược và kỹ thuật tác chiên cơ truyền đã trở lên lạc hậu.Thành luỹ cao,dầy không cản được đại bác;giáo gươm sắt khó đọ dược với súng đạn hiện đại.Tính quân sư của võ thuật từ chủ công đã lui xuống hàng thứ yếu và thu lại ở phạm vi hẹp.
Tiếp đó với sự thống trị của thực dân Pháp,quân đội không được học võ,Trường võ bị của nhà nước giải tán, các khoa thi võ bị bãi bỏ,TDTT của phương Tây được đưa vào các phong trào thanh niên và trường học thay cho tập võ,tất cả đã làm cho0 võ không còn là một công cụ cai trị của giai cấp thống trị.Võ cung đình bị xoá bỏ.

Nhưng võ cổ truyền mang tính chất văn hoá và trên mảnh đát văn hoá dân gian ở các làng quê,võ đã cắm sâu rễ,vẫn cứ tồn tại. Người ta học võ không phải để thi cử rồi tiến thân vào giai cấp thống trị mà để tham dự khắp các làng quê, để dữ đạo lý và làm việc nghĩa, để chống cường bạo, bảo vệ quê hương và cao hơn để ra nhập quân giải phóng đất nước. 
Gia đình các võ sư trở thành các võ đường,trước hết truyền dạy cho con cháu để giữ gìn gia phong và mở rộng cho một số người nhiệt tâm với võ,mỗi thay truyền theo mỗi cách má mình sở trường, từ đó hình thành các gia phái. Các họ đã có bề dày nghiệp võ với những cử nhân võ, những phó bảng , những Tạo sỹ và Tiến sỹ võ vẫn là niềm tự hào cần nuôi dưỡng và phát triển.
Từ các vùng đất võ có sự kết nối các võ sỹ tạo nên các lò võ, trong đó mọi người đều chung cửa và do đó hình thành những môn phái.Trên phạm vi cả nước,qua các cuộc thi võ cấp cao thời Lê Trung Hưng và thời Nguyễn. Lịch sử đã dần tạo lập được những trung tâm võ: Bắc bộ có Thăng Long-- Hà Nội; Nam bộ có Sài Gòn và lục tỉnh,mỗi trung tâm tạo thành một số dòng võ cổ truyền. Trên cơ sở các dòng võ với các môn phái mà hạt nhan là các gia phái,võ cổ truyền vẫn tiềm ẩn một sức sống dai dẳng, các võ sư tuy ''mai danh,ẩn tích'' vẫn truyền dạy cho các thế hệ nối tiếp,để rồi đến những thập kỷ gần đây được sự quan tâm của chính quyền nhân dân đã phục hồi và nhanh chóng phát triển lên trình đọ cao.

Bên cạnh đó,vào những thập kỷ cuối của nửa thế kỷ XX,một số chi phái, nhất là các dòng võ Thiếu Lâm và Võ Đang từ Trung Quốc cũng bằng nhiều cách thâm nhập vào Việt Nam,được các võ sư Việt Nam tiếp nhận,nhiều khi còn cải biến và kết hợp với võ bản xứ,đã làm cho gần gũi với bản địa,thích hợp với thể tạng người Việt Nam và trở thành một bộ phận của võ thuật cổ truyền hiện tại.


Ngoài ra trong những thập kỷ gần đây, môn Quyền anh; cùng với một số môn võ từ Nhật Bản và Triều Tiên cũng vào Việt Nam như Juđô, Teawondo, Karate... đã làm cho bộ mặt của võ thuật Việt Nam ngày càng phong phú hơn.
(sưu tầm)