Võ cổ truyền Việt Nam với lịch sử hàng ngàn năm lập nước,dựng nước và dữ nước,trên cơ sở gốc bản địa,nẩy sinh từ cuộc đấu tranh sinh tồn.
Từ sau công nguyên,trong cuộc giao lưu văn hoá với Ấn Độ và Trung Quốcđã tiếp nhận thêm nhưng môn võ mới và những kỹ thuật võ mới thích hợp.Các võ sư tham bác lẫn nhau.Về sau trong cơ chế chính quyền,nhà vnước lập võ banbên cạnh văn ban,rồi mở Trường võ bị và tổ chức thi võ ở địa phương,ở Trung ương với chương trình quy định thống nhất ,đã xoá dần những quan niệm hẹp hòi,tất cả hợp thành võ dân tộc.
Nhưng từ cuối thế kỷ XIX,với sự tấn công của chủ nghĩa tư bản phương Tây bằng sức mạnh từ xa,thì khoa học quân sự Việt Nam với trận pháp,chiến lược và kỹ thuật tác chiên cơ truyền đã trở lên lạc hậu.Thành luỹ cao,dầy không cản được đại bác;giáo gươm sắt khó đọ dược với súng đạn hiện đại.Tính quân sư của võ thuật từ chủ công đã lui xuống hàng thứ yếu và thu lại ở phạm vi hẹp.
Tiếp đó với sự thống trị của thực dân Pháp,quân đội không được học võ,Trường võ bị của nhà nước giải tán, các khoa thi võ bị bãi bỏ,TDTT của phương Tây được đưa vào các phong trào thanh niên và trường học thay cho tập võ,tất cả đã làm cho0 võ không còn là một công cụ cai trị của giai cấp thống trị.Võ cung đình bị xoá bỏ.
Nhưng võ cổ truyền mang tính chất văn hoá và trên mảnh đát văn hoá dân gian ở các làng quê,võ đã cắm sâu rễ,vẫn cứ tồn tại. Người ta học võ không phải để thi cử rồi tiến thân vào giai cấp thống trị mà để tham dự khắp các làng quê, để dữ đạo lý và làm việc nghĩa, để chống cường bạo, bảo vệ quê hương và cao hơn để ra nhập quân giải phóng đất nước.
Gia đình các võ sư trở thành các võ đường,trước hết truyền dạy cho con cháu để giữ gìn gia phong và mở rộng cho một số người nhiệt tâm với võ,mỗi thay truyền theo mỗi cách má mình sở trường, từ đó hình thành các gia phái. Các họ đã có bề dày nghiệp võ với những cử nhân võ, những phó bảng , những Tạo sỹ và Tiến sỹ võ vẫn là niềm tự hào cần nuôi dưỡng và phát triển.
Từ các vùng đất võ có sự kết nối các võ sỹ tạo nên các lò võ, trong đó mọi người đều chung cửa và do đó hình thành những môn phái.Trên phạm vi cả nước,qua các cuộc thi võ cấp cao thời Lê Trung Hưng và thời Nguyễn. Lịch sử đã dần tạo lập được những trung tâm võ: Bắc bộ có Thăng Long-- Hà Nội; Nam bộ có Sài Gòn và lục tỉnh,mỗi trung tâm tạo thành một số dòng võ cổ truyền. Trên cơ sở các dòng võ với các môn phái mà hạt nhan là các gia phái,võ cổ truyền vẫn tiềm ẩn một sức sống dai dẳng, các võ sư tuy ''mai danh,ẩn tích'' vẫn truyền dạy cho các thế hệ nối tiếp,để rồi đến những thập kỷ gần đây được sự quan tâm của chính quyền nhân dân đã phục hồi và nhanh chóng phát triển lên trình đọ cao.
Bên cạnh đó,vào những thập kỷ cuối của nửa thế kỷ XX,một số chi phái, nhất là các dòng võ Thiếu Lâm và Võ Đang từ Trung Quốc cũng bằng nhiều cách thâm nhập vào Việt Nam,được các võ sư Việt Nam tiếp nhận,nhiều khi còn cải biến và kết hợp với võ bản xứ,đã làm cho gần gũi với bản địa,thích hợp với thể tạng người Việt Nam và trở thành một bộ phận của võ thuật cổ truyền hiện tại.
Ngoài ra trong những thập kỷ gần đây, môn Quyền anh; cùng với một số môn võ từ Nhật Bản và Triều Tiên cũng vào Việt Nam như Juđô, Teawondo, Karate... đã làm cho bộ mặt của võ thuật Việt Nam ngày càng phong phú hơn.
(sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét